Nội dung chính có trong bài:
Cá chép Koi bắt đầu thành thục để sinh sản là ở độ tuổi từ 7-8 tháng tuổi. Mùa vụ sinh sản của chúng là vào mùa mưa nhưng hiện nay, do cá chép Koi đã được thuần hóa nên có thể sinh sản tốt quanh năm.
Cá Koi không chăm sóc trứng và có tập tính ăn trứng sau khi sinh sản. Sức sinh sản tương đối thực tế của cá Koi là: 97.000 trứng/ kg trọng lượng cá.
Tuy nhiên, sức sinh sản này còn tùy thuộc vào điều kiện nuôi, chế độ dinh dưỡng và các yếu tố môi trường khác như: thời gian phát triển phôi khoảng 8 – 42 giờ ở nhiệt độ nước 26 – 31 độ C.
Ngoài tự nhiên, cá Koi đẻ ở vùng nước tù có rễ, cây cỏ thủy sinh, độ sâu khoảng 1 mét. Còn trong điều kiện nhân tạo, cá có thể đẻ trong môi trường có giá thể, nguồn nước sạch và một số yếu tố kích thích khác.
Trứng cá Koi khi tiến hành nhân giống có đặc điểm trứng dính, hình tròn, đường kính 1,2 – 1,3mm, màu vàng trong, thời gian phát triển phôi: từ 36 – 40 giờ ở nhiệt độ 28 – 30 độ C.
Trong điều kiện nuôi ở nước ta, thời gian tái phát dục của cá Koi đực là khoảng 15 ngày, của cá cái khoảng 20 – 30 ngày. Thời gian tái phát dục của cá còn tùy thuộc vào bản thân loài và điều kiện sống, mùa vụ và cách phối giống của người nuôi.
Tìm hiểu cách nhân giống cá Koi chuẩn nhất sau đây.
Cách nhân giống cá Koi chuẩn là ngay từ bước đầu, bạn phải chọn đúng loại cá Koi thuần chủng, không lấy cá đực và cá cái trong cùng một lứa hay chỉ chọn hoặc đực hoặc cái.
Cá đực giống tốt có gờ nhám ở vây ngực, lỗ sinh dục lõm, khi vuốt nhẹ thì bụng phía gần lỗ sinh dục thấy có chất dịch màu trắng chảy ra. Đối với cá cái, nếu sờ thấy vây ngực nhẵn, lỗ sinh dục lồi, thân hình tròn hơn cá đực là cá đạt tiêu chuẩn.
Sau khi chọn được cá, bạn tiến hành nuôi vỗ cá bố mẹ với diện tích ao 500 – 1.000 m2 hoặc lớn hơn, độ sâu 1,2 – 1,5 mét. Ao gần nguồn nước để có thể chủ động thay nước, mặt ao thoáng, không bóng cây che, trên bờ không có bụi rậm.
Bờ ao cao hơn mực nước thủy triều cao nhất 0,5 m. Nuôi chung cá bố mẹ, mật độ 20 – 25 con/100 m2. Tỉ lệ đực: cái khi nuôi vỗ: 1: 2 hay 1: 3.
Thức ăn: cho cá Koi ăn các loại thức ăn dạng hạt dành cho cá hoặc tự chế biến thức ăn cho cá riêng.
Lượng thức ăn: 5 – 7% tổng trọng lượng đàn, có thể thay đổi tùy vào điều kiện khí hậu môi trường có thuận lợi hay không hoặc tùy vào sức khỏe đàn cá.
Cá chép Nhật tương đối dễ nuôi, việc chăm sóc cũng như ao nuôi các loài cá nước ngọt khác.
Cải tạo ao trước khi thả giống
Quy trình cải tạo ao trước khi thả giống cũng giống như ao nuôi các loài cá nước ngọt khác. Tuy nhiên, bạn cần lưu ý: cá chép nói chung thích ăn mồi ở tầng đáy, chủ yếu là động vật đáy, do đó để nâng cao năng suất nuôi và hiệu quả sử dụng ao hồ cần quan tâm đến việc gây nuôi động vật đáy để làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá. Bón phân gây màu: phân chuồng đã ủ hoai 25 – 50kg/100m2 và phải bón định kỳ (tùy vào màu nước trong ao có thể bón 1 – 2 lần/tháng).
Khi cá Koi của bạn đã được 7 – 8 tháng tuổi là đến giai đoạn thành thục, có thể tiến hành cho cá đẻ.
Muốn chất lượng giống cá tốt, bạn nên lựa chọn cá bằng cách:
Bể đẻ nên lựa chọn hồ xi măng, đáy bằng phẳng và không có vật nhọn. Diện tích 2,5 x 5 x 1,2m, giăng lưới xung quanh bên trong với mục đích dễ thu gom cá bố mẹ sau khi sinh sản và tiện cho việc theo dõi cá sinh sản. Mực nước cấp vào bể đẻ ban đầu khoảng 0,5m và phải lấy trước 2 ngày.
Cá chép Nhật là loài cá đẻ trứng dính trên cây cỏ thủy sinh nên giá thể là rất cần thiết. Có thể chọn bèo lục bình bằng cách vệ sinh sạch sẽ, ngắt bớt phần lá và rễ già để tạo chùm rễ thông thoáng, nên chọn phần rễ 30cm, phần thân 20cm là tốt nhất, ngâm vào nước muối 5% để sát trùng và loại bỏ ký sinh trùng khác.
Phối màu sắc cho cá Koi sinh sản như sau:
Trung bình 0,5 – 1 kg cá cái/m2 bể đẻ (khoảng 2 cá cái/m2 bể đẻ).
Tỉ lệ đực: cái tham gia sinh sản = 1,5/1 đến 2/1 để đảm bảo chất lượng trứng thụ tinh.
Việc lựa chọn cá bố mẹ thường được tiến hành vào buổi sáng: 8 – 9 giờ, khi cá bố mẹ được lựa chọn phù hợp thì cá được đem lên bể đẻ, kích thích dưới ánh sáng mặt trời. Độ chiếu sáng trung bình trên hồ là 8/24 giờ. Đến xế chiều, 16 – 17 giờ cho giá thể vào và tạo dòng nước chảy nhẹ vào hồ. Bố trí hệ thống sục khí để tăng cường oxy. Việc phơi nắng và tạo dòng chảy hay tăng cường oxy là các yếu tố kích thích sự sinh sản của cá.
Cá được đưa lên bể như trên sẽ đẻ trứng ngay vào hôm sau, khoảng 4 – 5 giờ sáng. Nếu cá chưa sinh sản thì phải bố trí lại từ đầu và tiếp tục sử dụng các yếu tố kích thích như ban đầu.
Tương tự như cá vàng hay cá chép thường, trước khi sinh sản, có hiện tượng cá đực rượt đuổi cá cái. Dưới sự kích thích của nước mới, cá vờn đuổi nhau từ bên ngoài và chui rúc vào ổ đẻ, tốc độ vờn đuổi càng lúc càng tăng thì cá sẽ đẻ dễ dàng. Cá cái quẫy mạnh phun trứng, cá đực sẽ tiến hành thụ tinh nơi trứng vừa được tiết ra. Trong suốt quá trình sinh sản, cá đực luôn bám sát cá cái để hoàn tất quá trình sinh sản.
Đối với trường hợp cá không sinh sản, bạn cần vớt giá thể ra vào khoảng 9 – 10 giờ sáng hôm sau, hạ bớt một phần nước trong hồ, tiếp tục để cho cá được phơi nắng trong hồ đến xế chiều cho thêm nước mới vào để kích thích cá đẻ tiếp tục và cho giá thể vào. Tạo điều kiện môi trường như lần đầu, hôm sau cá sẽ đẻ lại.
Đến giai đoạn này, bạn cần chú ý cho nước chảy nhẹ nhàng hoặc thay một phần lượng nước trong thau ấp bằng lượng nước đã dự trữ sẵn. Thau trứng luôn được sục khí liên tục, nhất là trứng sắp nở. Tránh sự chiếu sáng trực tiếp của ánh sáng mặt trời.
Trứng thụ tinh sau khoảng 24 giờ sẽ thấy hai mắt đen li ti. Quá trình phát triển phôi cần lượng oxy rất cao, nhất là thời điểm trước và sau khi trứng nở, vì cơ thể cá chuyển từ trạng thái phôi bất động sang trạng thái vận động, quá trình trao đổi chất tăng. Mặt khác, các enzym được tiết để phá vỡ mối liên kết màng trứng chỉ hoạt động trong điều kiện giàu oxy, nếu thiếu oxy thì enzym bị ức chế dẫn đến tỉ lệ nở thấp.
Trong giai đoạn cá mới nở, cá dễ chết hàng loạt nếu trên bề mặt có lớp váng do thiếu oxy, vì vậy bạn phải tăng cường sục khí sau khi trứng nở.
Cá mới nở tự dưỡng bằng noãn hoàng trong vòng 3 ngày. Cá từ 3 ngày tuổi có thể cho ăn phiêu sinh, bột đậu nành pha loãng trong nước. Sau giai đoạn này một số cá sẽ trổ màu nhưng chưa rõ nét.
Sau 7 – 10 ngày, bạn có thể thả cá ra ao. Ao đã được chuẩn bị sẵn và được gây màu thật tốt (bón phân gây màu như đã được trình bày trong phần chuẩn bị ao nuôi vỗ cá bố mẹ).
Nguồn thức ăn tự nhiên trong ao lúc này đóng vai trò vô cùng quan trọng. Tỉ lệ sống của cá bột phụ thuộc nhiều vào nguồn thức ăn tự nhiên này. Ao ương cá bột cần quản lý khắt khe nguồn cá tạp (diệt tạp trước khi thả cá bột, quản lý chặt chẽ nguồn nước ra vào ao thông qua cống, các hang mọi, trời mưa, nước tràn bờ,…).
Sau khi thả ra ao vài ngày có thể cho cá tập ăn cám hỗn hợp, tăng dần lượng thức ăn. Việc chăm sóc trong giai đoạn ương quan trọng nhất là theo dõi và quản lý màu nước. Bạn cần giữ nước có màu xanh lá non, ao luôn được thông thoáng, mặt ao có gió lùa. Tùy điều kiện có thể thay nước 2 – 3 lần/tháng.
Khi cá được khoảng 4 – 5 tháng tuổi, bắt đầu phát triển kỳ, vây theo kiểu dáng, màu sắc đặc trưng của cá là có thể thu hoạch để bán.
Trên đây là những kinh nghiệm về cách nhân giống cá Koi, bạn có thể tham khảo thêm bài viết: Cá Koi sinh sản có phải điềm lành không? để hiểu rõ hơn về tập tính sinh sản của cá Koi nhé!
Tùy thuộc vào nguồn gốc và quy mô mà giá bán cá koi Nhật, koi…
Nếu bạn đang gặp vấn đề cá koi bơi chúi đầu xuống dưới, tôi xin…
Khách hàng tại huyện Sóc Sơn luôn mong muốn tìm được cơ sở bán cá…
Nếu bạn đang tìm kiếm địa chỉ bán cá koi Nhật, koi Việt đẹp, rẻ…
Cá koi bơi sát đáy bể, thành bể và cạ mình vào đó, thậm chí…
Tôi đã nuôi cá koi được 1 năm, 3 tháng đầu rất thuận lợi, cá…